Nghiên cứu khoa học là một nội dung quan trọng nằm trong chương trình giảng dạy đại học vào cao học. Thông thường, các bạn sẽ được yêu cầu thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học, các bạn vẫn còn gặp khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp. Hiểu được điều này, trong bài viết dưới đây, luanvan2s.com sẽ cùng bạn đọc tìm hiểu sâu hơn về bản chất khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa học là gì cũng như các phương pháp nghiên cứu khoa học phổ biến nhất mà các bạn thường dùng ở bài viết dưới đây!
Để có thể hiểu rõ một cách tường tận bản chất khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa học là gì, chúng ta sẽ cùng chia nhỏ để tìm hiểu khái niệm từng nội dung trong phương pháp nghiên cứu khoa học. Cụ thể:
Khoa học là một khái niệm có nội hàm phức tạp mà theo mục đích nghiên cứu hoặc cách tiếp cận, ta có thể phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đối với một số người, khoa học đề cập đến các khóa học khó ở cấp trung học hoặc đại học như vật lý, hóa học và sinh học chỉ dành cho những học sinh giỏi nhất. Đối với những người khác, khoa học là một công việc thủ công được thực hiện bởi các nhà khoa học mặc áo khoác trắng sử dụng thiết bị chuyên dụng trong phòng thí nghiệm của họ. Về mặt từ nguyên, từ “khoa học” có nguồn gốc từ từ tiếng Latin “Scientia” có nghĩa là kiến thức. Khoa học đề cập đến một khối kiến thức có hệ thống và có tổ chức trong bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào được thu nhận bằng cách sử dụng “phương pháp khoa học”. Khoa học đề cập đến một khối kiến thức có hệ thống và có tổ chức trong bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào được thu nhận bằng cách sử dụng “phương pháp khoa học”. Khoa học có thể được nhóm thành hai loại lớn: khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học tự nhiên là khoa học về các đối tượng hoặc hiện tượng xảy ra tự nhiên, chẳng hạn như ánh sáng, vật thể, vật chất, trái đất, các thiên thể hoặc cơ thể con người. Khoa học tự nhiên có thể được phân loại thêm thành khoa học vật lý, khoa học trái đất, khoa học sự sống và các khoa học khác. Ngược lại, khoa học xã hội là khoa học về con người hoặc tập hợp người, chẳng hạn như nhóm, công ty, xã hội hoặc nền kinh tế, và các hành vi cá nhân hoặc tập thể của họ. Khoa học xã hội có thể được phân thành các ngành như tâm lý học (khoa học về các hành vi của con người), xã hội học (khoa học về các nhóm xã hội) và kinh tế học (khoa học về doanh nghiệp, thị trường và nền kinh tế). Khoa học tự nhiên khác với khoa học xã hội ở một số khía cạnh.
Khoa học cũng có thể được phân loại dựa trên mục đích của chúng. Khoa học cơ bản hay còn gọi là khoa học thuần túy là khoa học giải thích các vật thể và lực lượng cơ bản nhất, các mối quan hệ giữa chúng và các quy luật chi phối chúng. Ví dụ bao gồm vật lý, toán học và sinh học. Khoa học ứng dụng hay còn gọi là khoa học thực hành là ngành khoa học ứng dụng các kiến thức khoa học từ các ngành khoa học cơ bản trong môi trường vật chất. Ví dụ, kỹ thuật là khoa học ứng dụng áp dụng các quy luật vật lý và hóa học cho các ứng dụng thực tế như xây dựng các cây cầu mạnh hơn hoặc động cơ đốt cháy tiết kiệm nhiên liệu, trong khi y học là khoa học ứng dụng áp dụng các quy luật sinh học để giải quyết các bệnh tật của con người. Cả khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng đều cần thiết cho sự phát triển của con người. Tuy nhiên, khoa học ứng dụng không thể tự đứng vững mà phải dựa vào khoa học cơ bản để phát triển. Tất nhiên, ngành công nghiệp và doanh nghiệp tư nhân có xu hướng tập trung nhiều hơn vào khoa học ứng dụng vì giá trị thực tiễn của chúng, trong khi các trường đại học nghiên cứu cả khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.
Khái niệm khoa học là gì?
Lý thuyết và quan sát là hai trụ cột của khoa học, nghiên cứu khoa học hoạt động ở hai cấp độ: cấp độ lý thuyết và cấp độ thực nghiệm. Cấp độ lý thuyết quan tâm đến việc phát triển các khái niệm trừu tượng về một hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội và mối quan hệ giữa các khái niệm đó (tức là xây dựng “lý thuyết”), trong khi cấp độ thực nghiệm quan tâm đến việc kiểm tra các khái niệm lý thuyết và các mối quan hệ để xem chúng phản ánh tốt như thế nào các quan sát của chúng ta về thực tế, với mục tiêu cuối cùng là xây dựng các lý thuyết tốt hơn. Theo thời gian, một lý thuyết ngày càng trở nên tinh vi hơn (tức là phù hợp với thực tế quan sát hơn) và khoa học ngày càng phát triển. Nghiên cứu khoa học bao gồm việc liên tục xoay chuyển qua lại giữa lý thuyết và quan sát. Cả lý thuyết và quan sát đều là thành phần thiết yếu của nghiên cứu khoa học.
Tùy thuộc vào sự đào tạo và mối quan tâm của nhà nghiên cứu, nghiên cứu khoa học có thể ở một trong hai hình thức: quy nạp hoặc suy diễn. Trong nghiên cứu quy nạp, mục tiêu của nhà nghiên cứu là suy ra các khái niệm và mẫu lý thuyết từ dữ liệu quan sát được. Trong nghiên cứu suy diễn, mục tiêu của nhà nghiên cứu là kiểm tra các khái niệm và mẫu đã biết từ lý thuyết bằng cách sử dụng dữ liệu thực nghiệm mới. Do đó, nghiên cứu quy nạp còn được gọi là nghiên cứu xây dựng lý thuyết, và nghiên cứu suy diễn là nghiên cứu kiểm tra lý thuyết. Lưu ý ở đây rằng mục tiêu của kiểm tra lý thuyết không chỉ để kiểm tra một lý thuyết mà có thể là để tinh chỉnh, cải thiện và mở rộng nó.
Cả nghiên cứu quy nạp và nghiên cứu suy diễn đều quan trọng đối với sự tiến bộ của khoa học, nhưng có vẻ như nghiên cứu quy nạp (xây dựng lý thuyết) có giá trị hơn bởi có ít lý thuyết hoặc giải thích trước đó, trong khi nghiên cứu suy diễn (kiểm tra lý thuyết) có năng suất cao hơn khi có nhiều lý thuyết cạnh tranh về cùng một hiện tượng và các nhà nghiên cứu quan tâm đến việc biết lý thuyết nào hoạt động tốt nhất và trong hoàn cảnh nào.
Trong khoa học xã hội, việc xây dựng lý thuyết và kiểm tra lý thuyết là đặc biệt khó khăn do bản chất không chính xác của các khái niệm lý thuyết, không đủ công cụ để đo lường chúng và sự hiện diện của nhiều yếu tố không được tính toán cũng có thể ảnh hưởng đến hiện tượng quan tâm. Cũng rất khó để bác bỏ những lý thuyết không hiệu quả. Không giống như các lý thuyết trong khoa học tự nhiên, các lý thuyết khoa học xã hội hiếm khi hoàn hảo, điều này tạo ra nhiều cơ hội cho các nhà nghiên cứu cải tiến các lý thuyết đó hoặc xây dựng các lý thuyết thay thế của riêng họ.
Tìm hiểu nhiều hơn về khái niệm nghiên cứu khoa học tại bài viết: https://luanvan2s.com/nghien-cuu-khoa-hoc-la-gi-bid120.html
Khái niệm nghiên cứu khoa học là gì?
Trong các phần trước, Luận Văn 2S đã đề cập khoa học là kiến thức thu được thông qua một phương pháp nghiên cứu khoa học. Vậy “phương pháp nghiên cứu khoa học” chính xác là gì?
Phương pháp nghiên cứu khoa học đề cập đến một tập hợp các kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa để xây dựng kiến thức khoa học, chẳng hạn như cách thực hiện các quan sát hợp lệ, cách giải thích kết quả và cách tổng quát hóa các kết quả đó. Phương pháp nghiên cứu khoa học cho phép các nhà nghiên cứu kiểm tra một cách độc lập và khách quan các lý thuyết đã có từ trước và những phát hiện trước đó, đồng thời đưa chúng vào cuộc tranh luận mở, sửa đổi hoặc cải tiến. Phương pháp nghiên cứu khoa học phải thỏa mãn bốn đặc điểm chính:
Xem thêm:
→ Hướng dẫn viết tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên
Căn cứ vào cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu, sự khác nhau của những lao động cụ thể trong nghiên cứu khoa học, có 2 loại phương pháp sau:
Loại phương pháp này gồm các phương pháp quan sát, thí nghiệm thực nghiệm. Phương pháp quan sát trong nghiên cứu khoa học là phương pháp nghiên cứu nhằm xác định các thuộc tính và quan hệ của sự vật, hiện tượng riêng lẻ xét trong điều kiện tự nhiên vốn có của nó nhờ khả năng thụ cảm của các giác quan, khả năng phân tích tổng hợp, khái quát trừu tượng hóa.
Thực nghiệm thí nghiệm là việc người nghiên cứu dùng các phương tiện vật chất tác động lên đối tượng nghiên cứu để kiểm chứng các giả thiết, lý thuyết khoa học, chính xác hóa, bổ sung chỉnh lý các phỏng đoán giả thiết ban đầu nhằm xây dựng các giả thiết, lý thuyết khoa học mới.
Thí nghiệm, thực nghiệm được tiến hành theo sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học nào đấy. Nên muốn tiến hành thí nghiệm, thực nghiệm cần có tri thức khoa học và điều kiện vật chất.
Phương pháp thực nghiệm được áp dụng chủ yếu cho khoa học tự nhiên kỹ thuật - công nghệ - là những ngành khoa học có khả năng định lượng chính xác.
Trong phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, nhiều trường hợp người ta còn sử dụng phương pháp mô hình hóa mà đối tượng nghiên cứu không cho phép quan sát thực nghiệm trực tiếp.
Phương pháp nghiên cứu khoa học thực nghiệm
Loại phương pháp này dùng được cho tất cả các ngành khoa học, là quá trình tìm kiếm, phát hiện diễn ra qua tư duy trừu tượng, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, chữ viết,…Do vậy, phương pháp nghiên cứu lý thuyết giữ vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn.
Trong nghiên cứu lý thuyết, nền tảng và điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu là tri thức lý luận (quan điểm, lý thuyết). Nên việc nắm vững hệ thống lý luận nền tảng đóng vai trò quan trọng, là cơ sở hình thành định hướng trong nghiên cứu và hình thành các trường phái khoa học.
Học thuyết Mác - Lênin được xem là hệ thống lý luận nền tảng đối với toàn bộ khoa học xã hội ở nước ta. Người nghiên cứu khoa học xã hội cần trang bị vững chắc lý luận Mác - Lê Nin làm cơ sở cho toàn bộ quá trình sáng tạo phát triển tiếp theo.
Tri thức khoa học là tri thức chung, là tài sản chung của nhân loại, bất cứ lý thuyết nào nếu được thực tiễn chấp nhận đều mang hạt nhân khoa học và tính hợp lý của nó. Bên cạnh việc nắm vững học thuyết Mác - Lê nin làm điểm xuất phát, người nghiên cứu khoa học xã hội còn phải tiếp thu các lý luận, học thuyết khác.
Trong phương pháp lý thuyết, bởi đặc tính của quá trình sáng tạo khoa học diễn ra thông qua tư duy trừu tượng, suy luận, khái quát hóa, không được thực tiễn kiểm chứng ngay mà cần trải qua một thời gian khá dài đúng sai mới được sáng tỏ. Điều này dễ khiến người làm khoa học phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí, tự biện.
Phương pháp nghiên cứu khoa học lý thuyết
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích là phân chia cái toàn thể của đối tượng nghiên cứu thành từng bộ phận, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu từ đó phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó. Điều này giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc, hiểu được cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy.
Tổng hợp được xem là quá trình ngược với quá trình phân tích nhưng lại hỗ trợ cho quá trình phân tích nhằm tìm ra cái chung, cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, cần tổng hợp để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau trong nghiên cứu, có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự vật.
Phương pháp quy nạp và diễn giải: Quy nạp là phương pháp đi từ những hiện tượng riêng lẻ, rời rạc, độc lập ngẫu nhiên để liên kết các hiện tượng ấy với nhau từ đó tìm ra bản chất của một đối tượng nào đó. Cơ sở khách quan của phương pháp này là sự lặp lại của một hiện tượng này hoặc hiện tượng khác do chỗ cái chung tồn tại, biểu hiện thông qua cái riêng.
Diễn giải là phương pháp đi từ cái bản chất, nguyên tắc, nguyên lý đã được thừa nhận đề tìm ra các hiện tượng, các biểu hiện, cái trùng hợp cụ thể trong sự vận động của đối tượng.
Quy nạp và diễn giải là hai phương pháp nghiên cứu theo chiều trái ngược nhau song có liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhờ có kêt quả nghiên cứu theo phương pháp quy nạp trước đó mà việc nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển theo phương pháp diễn giải.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Phương pháp lịch sử tức là thông qua miêu tả tái hiện hiện thực với sự hỗn độn, lộn xộn, bề ngoài của các yếu tố, sự kiện kế tiếp nhau để nêu bật lên tính quy luật của sự phát triển. Tức là, phương pháp nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển và biến hóa của đối tượng, để phát hiện ra bản chất và quy luật của đối tượng.
Phương pháp lịch sử cần làm rõ quá trình phát triển cụ thể của đối tượng, nắm được sự vận động cụ thể trong toàn bộ tính phong phú của nó, bám sát lấy sự vật, theo dõi những bước quanh co, những ngẫu nhiên của lịch sử, phát hiện sợi dây lịch sử của toàn bộ sự phát triển. Từ cái lịch sử, chúng ta sẽ phát hiện ra quy luật phát triển của đối tượng, tức làm tìm ra cái logic của lịch sử.
Phương pháp logic là nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng.
Phương pháp logic nhằm đi sâu tìm hiểu bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện tượng Nó đi sâu nhiều vào hiện tượng, phân tích, so sánh,…từ đó tìm ra bản chất của hiện tượng.
Khoa học càng phát triển thì các phương pháp, cách thức nghiên cứu càng đa dạng, phong phú bất nhiều. Càng có nhiều phương pháp nghiên cứu càng tăng khả năng lực chọn phương pháp của người nghiên cứu và làm cho việc lựa chọn phương pháp có ý nghĩa quan trọng cả về mặt nhận thức khoa học lẫn hiệu quả thực hiện. Trên đây, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa học là gì và các phương pháp nghiên cứu khoa học thường dùng trong luận văn. Chúng tôi hy vọng với những chia sẻ này, bạn đọc đã có thêm những kiến thức hữu ích áp dụng trong quá trình học tập, nghiên cứu của mình.
Hà Nội: Tòa nhà Detech Tower - Số 8 Tôn Thất Thuyết, Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Đà Nẵng: Toà nhà Thành Lợi 2 - Số 3 Lê Đình Lý, Thạc Gián, Thanh Khê, Đà Nẵng.
Hồ Chí Minh: Tòa nhà Hải Hà - 217 Đường Nguyễn Văn Thủ, Đa Kao, Quận 1, Hồ Chí Minh.
Cần Thơ: Ba Tháng Hai, Xuân Khánh, Ninh Kiều, Cần Thơ.
Hotline: 0976 632 554
Email: 2sluanvan@gmail.com