Chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội (chủ nghĩa duy vật lịch sử) là một trong những phát kiến lớn của Triết học Mác - Lênin đã giúp chúng ta có khả năng nhận thức đúng đắn về thế tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Việc nghiên cứu chủ nghĩa duy vật lịch sử có ý nghĩa rất lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong các lĩnh vực khoa học, xã hội và nhân văn. Trong bài viết này, Luận Văn 2S sẽ khái quát về chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì và các nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử để giúp các bạn học tập tốt hơn.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử (CNDVLS) là một bộ phận hợp thành nên Triết học Mác- Lênin. Đây là khoa học triết học về xã hội và giải quyết một cách duy vật các vấn đề cơ bản của triết học khi vận dụng nó vào lịch sử. Trên cơ sở đó nghiên cứu các quy luật chung về sự phát triển lịch sử và hình thức thực hiện những quy luật đó trong hoạt động của con người. Hay nói cách khác, CNDVLS là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội, là kết quả của sự vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào các hiện tượng của đời sống xã hội, vào nghiên cứu xã hội, nghiên cứu lịch sử xã hội.
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã tạo nên một bước ngoặt căn bản trong sự phát triển tư tưởng xã hội. Trước đó, quan niệm duy tâm về đời sống xã hội đã thống trị và có nhiều thiếu sót cơ bản của xã hội học và sử học trước Mác như: Chỉ chú ý đến các động cơ tư tưởng của hoạt động của con người mà không tính đến các nguyên nhân vật chất và không nhìn thấy vai trò quyết định của nhân dân mà chỉ chú ý đến vai trò của cá nhân.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát kiến lớn của Triết học Mác - Lênin
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một hệ thống triết học duy vật biện chứng về xã hội, là bộ phận hợp thành triết học Mác, làm cho triết học Mác trở nên sâu sắc và triệt để. CNDVLS nghiên cứu xã hội với tính cách của một chỉnh thể, xã hội là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên với nền tảng là mối quan hệ của con người và sự tác động giữa con người với nhau.
Khách thể nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử là đời sống xã hội với tính cách một chỉnh thể. Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất và là nấc thang phát triển cao nhất của hệ thống sống, cũng chính là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
Con người chính là sự phát triển cao nhất của tự nhiên, là chủ thể sáng tạo của lịch sử và thông qua hoạt động của mình, con người làm nên lịch sử và tạo ra xã hội. Xã hội là một chỉnh thể hoàn chỉnh bao gồm sự tồn tại của con người cá nhân và các tập hợp người, sự tồn tại của các phương thức và cách thức quan hệ giữa người với người. Sự hình thành phát triển của con người và xã hội được xem là hai mặt của một quá trình thống nhất, điều này dẫn đến hệ quả là có thể nhận thức được quy luật xã hội, bản chất đời sống xã hội và bản chất con người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch ra các quy luật, động lực chung của sự vận động và phát triển của xã hội. Hệ thống các quy luật xã hội tồn tại ở các cấp độ khác nhau chi phối toàn bộ đời sống xã hội gồm các quy luật chi phối toàn bộ đời sống xã hội, các quy luật chi phối xã hội có giai cấp và các quy luật chi phối hình thái kinh tế- xã hội.
Hệ thống về động lực phát triển xã hội được xem xét ở nhiều phương diện khác nhau từ phương diện giải quyết mâu thuẫn biện chứng của xã hội, từ lực lượng xã hội cơ bản, từ các nhân tố thúc đẩy sự phát triển và từ các nhân tố thúc đẩy tính tích cực nhận thức và hoạt động của con người,…
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra những quy luật, động lực phát triển của xã hội. Đây là phát minh vĩ đại của C.Mác đã mang đến một cuộc cách mạng trong triết học về xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở nền tảng của thế giới quan và phương pháp luận khoa học trực tiếp cho nhận thức và cải tạo xã hội: Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ra các khoa học xã hội trên nền tảng khoa học vững chắc, đẩy lùi các quan điểm duy tâm và siêu hình trong nhận thức về lịch sử- xã hội. CNDVLS cũng là cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp công nhân và các Đảng cộng sản trong việc xác định các vấn đề chiến lược và sách lược của Cách mạng. CNDVLS là cơ sở lý luận khoa học để Đảng cộng sản dựa vào đó đánh giá, phân tích tình hình thời cuộc một cách đúng đắn, xác định các vấn đề chiến lược và sách lược của Cách mạng trong tình hình mới.
Với lĩnh vực quân sự vô sản, chủ nghĩa duy vật lịch sử đóng vai trò là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trực tiếp cho khoa học quân sự, góp phần vào việc hình thành phát triển phương pháp nghiên cứu khoa học cho cán bộ cách mạng và cán bộ quân đội để họ nâng cao trình độ và là vũ khí tinh thần sắc bén để họ đấu tranh tư tưởng và lý luận.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận khoa học để từ đó xem xét, giải quyết các vấn đề của thời đại và cách mạng Việt Nam:Trong nhận thức thời đại hiện nay, chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học để qua đó nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại với các vấn đề như bản chất, mâu thuẫn, sự vận động,….của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời cũng là cơ sở khoa học để nhận thức và khắc phục khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới hiện nay.
Với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay, chủ nghĩa duy vật lịch sử góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, nó cũng là cơ sở lý luận khoa học để giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và việc thực hiện công bằng xã hội,….
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận khoa học trực tiếp với lý luận và thực tiễn quân sự: Thông qua CNDVLS có thể nhận diện bản chất của các cuộc chiến tranh và là cơ sở lý luận trong nhận thức và giải quyết các vấn đề trong hoạt động quân sự hiện nay.
Với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở khoa học cho đổi mới tư duy về bảo vệ Tổ quốc của Đảng và cũng là cơ sở để phát huy vai trò của nhân tố tinh thần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển của xã hội. Các môn khoa học xã hội nói trên (kinh tế chính trị, mỹ học, ngôn ngữ học) nghiên cứu sự phát triển của những mặt cá nhân nhất định của đời sống xã hội, những kiểu quan hệ xã hội nhất định. CNDVLS, trái ngược với các khoa học này, nghiên cứu các quy luật phát triển của toàn xã hội, trong sự tác động qua lại của tất cả các mặt của nó. Nó cung cấp câu trả lời cho câu hỏi về điều gì quyết định bản chất của hệ thống xã hội, điều gì quyết định sự phát triển của xã hội, điều gì quyết định sự chuyển đổi từ hệ thống xã hội này sang hệ thống xã hội khác, chẳng hạn, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Không giống như lịch sử dân sự, được thiết kế để phản ánh một cách cụ thể toàn bộ quá trình các sự kiện đã diễn ra trong đời sống xã hội của từng quốc gia và dân tộc,
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đưa ra câu trả lời khoa học, chính xác duy nhất cho những câu hỏi cơ bản nhất, quan trọng nhất của khoa học xã hội, nếu không làm rõ vấn đề này thì không thể giải thích một cách chính xác sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội và sự phát triển của bất kỳ khía cạnh riêng lẻ nào của nó.
Trong đời sống công chúng, chúng ta quan sát các mối quan hệ kinh tế, chính trị và hệ tư tưởng. Có một mối liên hệ xác định nào giữa các mối quan hệ này và bản chất của mối liên hệ này là gì? - đây là một trong những câu hỏi mà khoa học xã hội cần phải trả lời.
Liệu có mối liên hệ cần thiết nội tại, tính quy luật trong sự kế tiếp nhau linh hoạt, đa dạng, phức tạp và mâu thuẫn của các sự kiện lịch sử, trong toàn bộ quá trình phát triển của xã hội, hay ở đây, trong đời sống xã hội, không giống như tự nhiên, may rủi, hỗn loạn và tùy tiện ngự trị?
Nhân loại đã vượt qua một chặng đường phát triển lịch sử lâu dài và khó khăn: từ chế độ công xã sơ khai, qua chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản, tiến lên chủ nghĩa xã hội, đã chiếm một phần sáu toàn cầu. Những động lực thúc đẩy sự phát triển tiến bộ này là gì?
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là người đầu tiên đưa ra câu trả lời khoa học cho tất cả những câu hỏi này - một khoa học chỉ ra con đường dẫn đến ý thức về lịch sử như một quá trình tự nhiên, duy nhất, mang tất cả tính linh hoạt và mâu thuẫn của nó. CNDVLS là một lý thuyết khoa học tổng hợp và hài hòa giải thích sự phát triển của xã hội, sự chuyển đổi từ hệ thống xã hội này sang hệ thống xã hội khác. Đồng thời, là phương pháp khoa học, đúng đắn duy nhất để nghiên cứu từng mặt riêng lẻ của đời sống xã hội, là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử cụ thể và nói chung là lịch sử các nước, các dân tộc.
Nói tóm lại, chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội loài người cũng như bất cứ môn khoa học nào để phản ánh đúng đắn đối tượng mà mình nghiên cứu. CNDVLS đã xây dựng nên một hệ thống các phạm trù khoa học, các phạm trù đó phản ánh những mặt cơ bản, những quá trình khác nhau của đời sống xã hội như tồn tại xã hội, ý thức xã hội, quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng - kiến trúc thương tầng, giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, nhà nước... Vì những hiện tượng của đời sống xã hội có liên hệ hữu cơ với nhau trong quá trình lịch sử nên những phạm trù phản ánh chúng cũng được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử là công cụ nhận thức khoa học về những quy luật chung nhất và những động lực của sử phát triển xã hội. Những phạm trù và quy luật đó phản ánh những mặt và những mối liên hệ cơ bản, tất yếu, khách quan của đời sống xã hội như quan hệ tác động qua lại giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng...
Sản xuất vật chất chính là quá trình mà con người sử dụng các công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất trong thế giới tự nhiên để có thể tạo ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Phương thức sản xuất là các cách thức con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở các giai đoạn lịch sử nhất định.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, sản xuất vật chất có vai trò là nhân tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của con người cũng như của xã hội. Là các hoạt động nền tảng để phát sinh và phát triển các mối quan hệ xã hội của con người, là cơ sở hình thành, biến đổi cũng như phát triển xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất là các nhân tố được dùng trong quá trình sản xuất tạo thành năng lực thực tiễn có thể cải biến các đối tượng tự nhiên theo nhu cầu của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm 3 khía cạnh: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất và quan hệ trong phân phối các sản phẩm được sản xuất ra.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định lẫn nhau và thống nhất với nhau. Đây cũng là yêu cầu tất yếu và phổ biến diễn ra trong quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất tại mỗi giai đoạn lịch sử xác định vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thái kinh tế-xã hội còn lực lượng sản xuất mới là nội dung vật chất và kỹ thuật của quá trình đó.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế trong xã hội.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị- xã hội tương ứng được hình thành trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng phản ánh với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng thông qua nhiều phương thức. Điều này tùy thuộc vào bản chất của các nhân tố trong kiến trúc thượng tầng, vị trí và vai trò của nó cùng các điều kiện cụ thể. Trong đó, nhà nước là nhân tố tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng kinh tế.
Xem thêm:
→ Lý luận chung về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Tồn tại xã hội chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện vật chất của xã hội, bao gồm các yếu tố như phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý,…trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quan trọng nhất.
Ý thức xã hội là các phương diện sinh hoạt liên quan đến tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh sự tồn tại của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Tồn tại xã hội quyết định đến ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi thì kéo theo đó là các tư tưởng và lý luận xã hội, các quan điểm về chính trị, pháp quyền,triết học cũng thay đổi theo,….Song, ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối và có khả năng tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Hạt nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là lý luận về hình thái kinh tế- xã hội. CNDVLS đã không dừng lại ở việc lý giải nguyên lý chung về mối quan hệ giữa tồn tại và ý thức xã hội mà còn phân tích kết cấu của xã hội, xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố cấu thành xã hội và xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố đó hình thành học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội là một trong những nền tảng lý luận cơ bản của lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hình thái kinh tế - xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở giai đoạn lịch sử nhất định với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Học thuyết về hình thái kinh tế- chính trị là một cuộc cách mạng của khoa học xã hội nói chung và của Triết học nói riêng. Học thuyết đó chỉ ra rằng, động lực của lịch sử chính là hoạt động thực tiễn của con người, xuất phát từ các sự thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở, mặc,… nghĩa là phải lao động trước khi có thể đấu tranh giành quyền thống trị. Quan hệ xã hội vật chất quyết định các quan hệ khác, đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn khách quan để thấy được các quy luật xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Nó là khoa học triết học về xã hội, là xã hội học chung làm cơ sở, phương pháp luận cho tất cả các khoa học cụ thể, nghiên cứu về xã hội như kinh tế, chính trị học, sử học, đạo đức học, mỹ học... và các môn xã hội học riêng biệt như xã hội học về lao động, về gia đình... Lênin đã từng khẳng định "chủ nghĩa duy vật lịch sử không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử". Thực vậy, CNDVLS phát hiện ra những quy luật phát triển chung nhất của xã hội loài người qua tất cả các hình thái kinh tế xã hội. Nó nghiên cứu sâu hơn những quy luật tác động trong các hình thái kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp, nhất là những quy luật của hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Do đó, chủ nghĩa duy vật lịch sử giữ vài trò phương pháp luận chung nhất cho các khoa học xã hội.cụ thể.
Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý giữa chủ nghĩa khoa học lịch sử và khoa học xã hội và nhân văn khác có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó thể hiện CNDVLS dựa trên những thành tựu của khoa học xã hội và nhân văn cụ thể để khái quát thành những nguyên lý chung. Hay nói cách khác, chủ nghĩa khoa học lĩch sử cần đến các khoa học xã hội và nhân văn khác. Ngược lại, sự phát triển của các khoa học xã hội và nhân văn cụ thể phải tuân theo những quy luật chung của xã hội mà CNDVLS đã phát hiện, chứng minh ngày càng rõ hơn tính đúng đắn của CNDVLS.
Nếu không nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì các nhà khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể nào phát hiện, phát triển môn khoa học của mình một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học mà sẽ rơi vào quan điểm duy tâm, siêu hình trong việc nghiên cứu xã hội.
Trên đây, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu các kiến thức xoay quanh khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì? Đối tượng, nội dung, ý nghĩa và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hy vọng rằng những nội dung kiến thức đề cập trong bài viết để hoàn thành việc học tập nói chung và viết tiểu luận Triết học về chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng.
Hà Nội: Tòa nhà Detech Tower - Số 8 Tôn Thất Thuyết, Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Đà Nẵng: Toà nhà Thành Lợi 2 - Số 3 Lê Đình Lý, Thạc Gián, Thanh Khê, Đà Nẵng.
Hồ Chí Minh: Tòa nhà Hải Hà - 217 Đường Nguyễn Văn Thủ, Đa Kao, Quận 1, Hồ Chí Minh.
Cần Thơ: Ba Tháng Hai, Xuân Khánh, Ninh Kiều, Cần Thơ.
Hotline: 0976 632 554
Email: 2sluanvan@gmail.com