Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của du lịch thế giới, du lịch Việt nam cũng đã đạt được những thành quả nhất định. Ngành du lịch hiện nay đã và đang là ngành công nghiệp không khói mang lại đóng góp to lớn về mặt kinh tế cho nền kinh tế quốc dân và những giá trị tinh thần rất lớn cho mọi người trong xã hội. Vì vậy, việc phát triển các sản phẩm du lịch được coi trọng hơn bao giờ hết. Vậy sản phẩm du lịch là gì? Chất lượng sản phẩm du lịch là gì? Làm thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch? Tất cả sẽ được đề cập trong bài viết dưới đây của Luận Văn 2S.
Có nhiều quan niệm về sản phẩm du lịch (Tiếng Anh: Tourism Products), một số quan niệm tiêu biểu như sau:
Sản phẩm du lịch là toàn bộ các sự vật hiện tượng cả về vật chất lẫn tinh thần của cá nhân, doanh nghiệp hoặc địa phương cung ứng du lịch làm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của du khách và tạo ra lợi nhuận, danh tiếng cho họ.
Theo nghĩa rộng: Từ góc độ thỏa mãn chung của sản phẩm du lịch, sản phẩm du lịch được hiểu là sự kết hợp của các dịch vụ hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo nên từ sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội và sử dụng các nguồn lực khác như cơ sở vật chất và nhân lực của một cơ sở, một vùng, địa phương hay quốc gia.
Theo nghĩa hẹp: Từ góc độ thỏa mãn đơn lẻ nhu cầu đi du lịch, sản phẩm du lịch là sản phẩm hàng hóa cụ thể nhằm thỏa mãn các nhu cầu khi đi du lịch của con người. Tức là bất cứ cái gì có thể mang ra trao đổi để thỏa mãn mong muốn của du khách du lịch bao gồm sản phẩm hữu hình và sản phẩm vô.
Theo quan điểm marketing: Sản phẩm du lịch là hàng hóa và dịch vụ làm thỏa mãn nhu cầu của du khách được doanh nghiệp du lịch đưa ra chào bán trên thị trường nhằm thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng của khách du lịch.
Tại Điều 4 chương 1, Luật Du lịch Việt Nam (2005) quy định: Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến đi du lịch.
Sản phẩm du lịch là gì?
Bài viết liên quan:
→ Dịch vụ du lịch là gì? Cơ sở lý luận về dịch vụ du lịch
Sản phẩm du lịch mang những đặc trưng cơ bản như sau:
Tính vô hình: Các sản phẩm du lịch thực sự là các dịch vụ được bán cho khách du lịch, và nó không phải là hàng hóa. Dịch vụ không thể được nhìn thấy, ngửi, cảm nhận hoặc chạm vào, nó chỉ có thể được trải nghiệm. Tức là sản phẩm du lịch không tồn tại ở dạng vật chất cụ thể mà du khách chỉ có thể kiểm tra và cảm nhận chất lượng dịch vụ trong sản phẩm đó khi đã sử dụng nó chứ không thể thử hay sờ, chạm được. Người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm trước sau đó sẽ đến để thưởng thức và hưởng thụ sản phẩm. Ví dụ, có thể nghe nhận xét của hướng dẫn viên. Một đại lý du lịch đặt vé từ nơi A đến B. Tấm vé chỉ là một tờ giấy, một tấm vé vào cửa để sử dụng dịch vụ. Một hãng hàng không cung cấp dịch vụ vận chuyển, tiện nghi và giải trí. Do đó, việc đánh giá kỹ lưỡng về dịch vụ trước khi mua là không thể và khiến khách hàng sử dụng các dấu hiệu khác để giúp họ đánh giá dịch vụ như nội thất của nhà hàng, hình thức bên ngoài của lối vào khách sạn hay cách cư xử của nhân viên lễ tân.
Tính không thể tách rời: Sản phẩm du lịch không thể tách rời người cung cấp dịch vụ. Nếu như đối với các sản phẩm thông thường khác, việc tiêu thụ diễn ra sau khi sản xuất và thường ở xa nhà máy. Thì đối với hầu hết các sản phẩm du lịch, người sản xuất và người bán là những người như nhau. Sản phẩm du lịch được sản xuất và tiêu dùng cùng một lúc.
Ví dụ, một hướng dẫn viên phải có mặt để giải thích sự hấp dẫn. Một phi công phải có mặt để lái máy bay. Cả nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ đều phải có mặt thực tế để cùng nhau thỏa mãn việc trao đổi dịch vụ. Du khách đến công viên quốc gia không thể trải nghiệm dịch vụ tại quầy nếu lễ tân không có mặt, cũng như lễ tân không thể cung cấp dịch vụ khi du khách vắng mặt.
Tính không bảo quản và lưu giữ: Sản phẩm du lịch rất dễ hư hỏng. Hay nói cách khác, sản phẩm du lịch không thể lưu kho nên cần tạo sự ăn khớp giữa cung và cầu trong du lịch. Sản phẩm du lịch mang đặc trưng của một sản phẩm dịch vụ không thể dự trữ như sản phẩm vật chất nên việc sản xuất sản phẩm du lịch và thực hiện giá trị phải lấy việc mua thực tế của du khách làm nền tảng.
Tính không chuyển đổi sở hữu: Như trong trường hợp của hàng hóa hữu hình như tivi. Ngay sau khi chúng tôi mua nó, chúng tôi trở thành chủ sở hữu của nó. Những điều này không đúng với các sản phẩm du lịch. Một sản phẩm du lịch khi được bán cho khách hàng hoặc khách du lịch, anh ta chỉ có thể tận dụng dịch vụ đó chứ không thể là chủ sở hữu của nó. Ví dụ, trong khi mua một phòng khách sạn, trong khi mua một chỗ ngồi trên máy bay hoặc một chuyến tàu sang trọng, bạn chỉ có thể sử dụng các tiện nghi của dịch vụ trong một thời gian nhất định. Bạn không thể là chủ sở hữu của nó suốt đời.
Tính dễ sao chép: Sản phẩm du lịch thường là một kinh nghiệm dễ bắt chước. Các thành phần cơ bản của sản phẩm du lịch rất dễ bị sao chép lẫn nhau về hình thức hay kết cấu sản phẩm. Điều này khiến du khách khó phân biệt được chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp sau khi đã tiêu dùng.
Tính không đồng nhất: Một đặc điểm khác của sản phẩm du lịch là nó không đồng nhất. Trong du lịch, khách du lịch sử dụng một số dịch vụ, bao gồm vận tải, khách sạn, nhà hàng, cho thuê ô tô và nhiều loại hình hoạt động giải trí trong nhà và ngoài trời. Tuy nhiên, những gì một khách du lịch trải nghiệm ở một nơi có thể sẽ không giống với những gì họ đã trải nghiệm ở một nơi khác. Ngay cả trong cùng một nhà hàng, vì có nhiều nhân viên nên cách phục vụ đối với khách hàng này có thể không giống với cách phục vụ đối với khách hàng khác. Yếu tố con người tạo nên sự khác biệt giữa sản phẩm này với sản phẩm khác.
Tính thời vụ: Tính thời vụ thể hiện rõ nét ở sản phẩm du lịch. Xét theo chu kỳ năm, vào thời điểm các kỳ nghỉ lễ dài (nghỉ lễ, nghỉ hè, nghỉ đông…) thì lượng khách có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, số lượng khách du lịch cũng đông đảo hơn vào các ngày cuối tuần so với các ngày đầu tuần… Tính thời vụ rõ nét đã gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm du lịch. Khi nhu cầu tăng, các nhà cung cấp sẽ tăng giá cao hơn bình thường. Cùng với đó, chất lượng dịch vụ cũng có thể giảm đi vào mùa du lịch cao điểm bởi cùng một lúc phải phục vụ nhiều khách du lịch. Từ những lý do trên, ta có thể thấy rằng tính mùa vụ trong du lịch đã ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh và chất lượng sản phẩm du lịch.
Ngoài ra, một đặc trưng nữa của sản phẩm du lịch thường ở xa nơi cư trú nên cần xây dựng hệ thống phân phối qua khâu trung gian như đại lý du lịch,văn phòng du lịch,… Do đó, marketing du lịch là hoạt động quan trọng đóng vai trò then chốt trong việc giới thiệu sản phẩm du lịch đến du khách.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi phân loại sản phẩm du lịch, cụ thể như sau:
Theo tài nguyên du lịch
Sản phẩm du lịch tự nhiên: là loại hình dịch vụ du lịch dựa trên nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên như du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch nghỉ dưỡng núi,…mỗi loại hình này lại có thể được phân chia thành nhiều sản phẩm cụ thể khác đáp ứng nhu cầu và sở thích của du khách.
Sản phẩm du lịch văn hóa: Bao gồm các loại hình như: du lịch tham quan di tích, du lịch lễ hội, du lịch làng nghề,…
Theo nhu cầu của thị trường
Cầu về thời gian: Gồm các sản phẩm du lịch ngắn ngày và sản phẩm du lịch dài ngày, được quy định tùy theo nhu cầu thị trường. Những sản phẩm du lịch ngắn ngày thường từ 1-2 giờ và đối đa không quá 3 ngày. Sản phẩm du lịch dài ngày thường từ 3 ngày trở lên.
Cầu đặc biệt: Là các sản phẩm du lịch được xây dựng đáp ứng mối quan tâm hay sở thích đặc biệt của du khách. Sản phẩm thuộc loại này được thiết kế theo yêu cầu của một hay một nhóm du khách và chỉ dành cho các đối tượng này chứ không bán sản phẩm một cách rộng rãi.
Theo hình thức tổ chức sản phẩm
Sản phẩm du lịch trọn gói: Bao gồm các trải nghiệm du lịch hoàn chỉnh từ khi du khách rời khỏi nhà cho đến khi trở về. Sản phẩm này là hệ thống các dịch vụ, hàng hóa được sắp xếp theo chuỗi thời gian liên tục nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của du khách trong suốt chuyến đi.
Sản phẩm du lịch riêng lẻ: Các các dịch vụ, hàng hóa thỏa mãn nhu cầu riêng lẻ của du khách khi họ thực hiện chuyến đi của mình gồm các dịch vụ như nhu cầu lưu trú, vận chuyển, tham quan giải trí,…
So với việc xác định chất lượng của các sản phẩm thông thường khác, việc xác định chất lượng của sản phẩm du lịch phức tạp hơn rất nhiều. Dưới đây ta sẽ cùng nhau tìm hiểu bản chất khái niệm chất lượng sản phẩm du lịch.
Khái niệm chất lượng:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng, cụ thể như sau:
Theo tiêu chuẩn Pháp NF X50-109, chất lượng được hiểu là là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu người sử dụng.
Giáo sư Kaoru Ishikawa - Nhật lại nhận định chất lượng là khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường với chi phí thấp nhất
Còn theo tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng ISO 9000-2000 định nghĩa “chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu (nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu hay bắt buộc)”
Đối với người sản xuất, chất lượng là đáp ứng các chỉ tiêu kỹ thuật đã đề ra cho sản phẩm; còn đối với người bán hàng, chất lượng được hiểu trong mắt của người mua, của khách hàng.
Khái niệm chất lượng sản phẩm du lịch:
Ngoài sự thiếu nhất quán của khái niệm chất lượng, thì khái niệm chất lượng sản phẩm du lịch còn mang những đặc thù riêng khó đánh giá bởi chính chất phức tạp của sản phẩm du lịch. Từ những khái niệm và nhận định trên thì khái niệm chất lượng sản phẩm du lịch có thể định nghĩa như sau: chất lượng sản phẩm du lịch chính là mức phù hợp của sản phẩm du lịch nhằm làm thỏa mãn các nhu cầu đề ra hoặc định trước của khách du lịch.
Berry và Parasuraman (1991) đã đưa ra 5 tiêu chí để đánh giá chất lượng dịch vụ, có thể áp dụng để đánh giá sản phẩm du lịch là: tính hữu hình, sự tin cậy, sự đồng cảm, sự đảm bảo và tinh thần trách nhiệm. Cụ thể:
Sự tin cậy: Sự tin cậy được thể hiện thông qua việc nhà cung ứng có khả năng cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như đã hứa một cách chính xác. Không những thế, sự tin cậy còn bao gồm sự nhất quan ngay từ đầu cam kết dịch vụ. Đảm bảo dịch vụ đáng tin cậy là một trong những điều cơ bản mà khách hàng trông đợi.
Tinh thần trách nhiệm: Tinh thần trách nhiệm đề cập đến việc nhà cung cấp dịch vụ một cách hăng hái và sẵn sàng giúp đỡ khách hàng một cách tích cực. Trong trường hợp dịch vụ sai hỏng, nhà cung cấp có khả năng khôi phục nhanh chóng có thể tạo ra cảm nhận tích cực của khách hàng về chất lượng dịch vụ.
Sự đảm bảo. Sự bảo đảm là việc thực hiện dịch vụ một cách lịch sự và kính trọng khách hàng, thực sự quan tâm và giữ bí mật cho họ.
Sự đồng cảm. Sự đồng cảm thể hiện việc chăm sóc chu đáo, chú ý đến từng khách hàng. Sự đồng cảm bao gồm khả năng tiếp cận và nỗ lực tìm hiểu nhu cầu của khách.
Tính hữu hình. Tính hữu hình là hiện diện của điều kiện vật chất, trang thiết bị, con người và các phương tiện thông tin như: môi trường xung quanh (chất lượng không khí, nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn, sự sạch sẽ); trang trí (tính thẩm mỹ như kiểu kiến trúc, màu sắc, kiểu mẫu, vật liệu, hình dáng, phong cách, cách sắp xếp); yếu tố xã hội (các khách hàng khác, dịch vụ cá nhân); các phương tiện thông tin (đưa thông tin đến khách hàng, các thông tin để hướng dẫn khách hàng khi sử dụng dịch vụ); giá cả (giá cả phải phù hợp với mục tiêu mua bán và thu hút khách hàng quyết định tiêu dùng sản phẩm du lịch).
Trong 5 chỉ tiêu trên thì 4 chỉ tiêu mang tính vô hình là: sự tin cậy, tinh thần trách nhiệm, sự đảm bảo, sự đồng cảm và chỉ có 1 chỉ tiêu mang tính hữu hình. Vì sản phẩm du lịch là sự kết hợp của các dịch vụ du lịch, mang tính vô hình nhiều hơn nên có thể được đánh giá dựa trên các tiêu chí trên.
Chất lượng sản phẩm du lịch được thể hiện thông qua chất lượng của các dịch vụ du lịch cấu thành. Chất lượng dịch vụ du lịch có thể được xác định thông qua các phương pháp sau:
Trong các phương pháp trên thì phương pháp căn cứ vào sự thỏa mãn của khách hàng thể hiện rõ nét nhất bản chất của chính khái niệm chất lượng dịch vụ. Vì mục đích của việc đo lường chất lượng là để biết được khách hàng cảm nhận và đánh giá như thế nào về chất lượng sản phẩm được cung cấp.
Việc đánh giá được chất lượng dịch vụ căn cứ vào sự thỏa mãn của khách hàng. Để đánh giá chất lượng dịch vụ, ta có thể thực hiện theo hai phương pháp điển hình là mô hình SERVQUAL của A.Parasuraman, Valarie A. Zeithaml. Leonard L.Berry (1998) và phương pháp của Tomy D.Anderson (1994).
Nhu cầu của du khách ngày càng đa dạng và xu hướng của họ là luôn mong muốn được cung cấp các dịch vụ cao hơn. Cho nên, để đáp ứng được trông đợi của khách hàng thì các nhà cung cấp phải thường xuyên cải tiến chất lượng sản phẩm của mình. Duy trì và cải tiến chất lượng chính là nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Theo tiêu chuẩn ISO 9000:1996, cải tiến chất lượng bao gồm những hoạt động được tiến hành trong toàn tổ chức nhằm mục đích nâng cao hiệu quả và hiệu quất của hoạt động và quá trình để tạo thêm thuận lợi cho cả tổ chức và khách hàng của tổ chức. Cải tiến chất lượng là toàn bộ những hoạt động nhằm đưa chất lượng sản phẩm lên mức cao hơn trước nhằm giảm dần khoảng cách giữa mong muốn của khách hàng và thực tế chất lượng đạt được, thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức cao hơn.
Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch là tất cả các hoạt động một mặt để duy trì mặt khách cải tiến để đưa chất lượng dịch vụ lên mức cao hơn trước nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng và đem lại hiệu quả cho nhà cung ứng.
Để đánh giá chất lượng sản phẩm thực sự của mình, các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào những cảm nhận của chính mình mà phải từ đánh giá của khách hàng. Vì mục tiêu của doanh nghiệp là làm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng để họ không chỉ sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp một lần mà còn các lần tiếp theo nếu quay trở lại. Cho nên, để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, các nhà cung cấp phải thường xuyên lấy ý kiến đánh giá của khách hàng, xem xét, phân tích các ý kiến đó để cung cấp dịch vụ phù hợp và cải tiến chất lượng ngày càng cao hơn.
Việc đánh giá này có thể thông qua thu thập thông tin từ phiếu điều tra hoặc thông qua nhật ký hàng ngày, hàng tuần của nhân viên. Mỗi doanh nghiệp có thể có cách thu thập, đánh giá, phân tích nhu cầu của khách hàng khác nhau, nhưng mục đích là nắm bắt được sự cảm nhận dịch vụ của khách hàng của họ để từ đó giải pháp khắc phục và cải tiến hiệu SPDL cho phù hợp.
Bố trí lao động phù hợp vào từng vị trí của doanh nghiệp là điều quan trọng vì người lao động sẽ phát huy khả năng tốt nhất của mình khi được sắp xếp vào vị trí phù hợp với chuyên môn và năng lực. Trong hoạt động du lịch thì việc sắp xếp đúng vị trí khởi nguồn cho thành công của doanh nghiệp. Các vị trí khác nhau yêu cầu trình độ, ngoại hình khác nhau. Ví dụ, nhân viên lễ tân trong khách sạn thì ngoài chuyên môn nghiệp vụ còn cần có ngoại hình ưa nhìn và phong thái hoạt bát, còn bộ phận buồng thì ngoại hình có thể không quá chú trọng như bộ phận lễ tân.
Chuyên môn hoá là sự cần thiết trong mọi công việc, tuy nhiên, một đặc điểm tương đối đặc thù của du lịch là tổng hợp nên giữa các bộ phận có thể luân chuyển làm việc để mọi nhân viên trong doanh nghiệp đều hiểu công việc của các bộ phận khác. Sự tổng hợp này tạo cho mọi người có cái nhìn tổng thể về toàn diện hơn về sản phẩm của công ty, nhưng mỗi người vẫn chịu trách nhiệm chính trong phần chuyên môn của mình.
Việc mở rộng công việc và lĩnh vực hoạt động của nhân viên giúp cho nhân viên tiếp thu được các kỹ năng cơ bản cần thiết để đáp ứng mọi dịch vụ của công ty. Tuy nhiên việc tiếp thu các kiến thức một cách có hệ thống cũng rất cần thiết, vì vậy việc bổ sung kiến thức thường xuyên cho nhân viên bằng việc tham gia các khóa học để nâng cao tay nghề là cần thiết.
Ngoài ra, việc đánh giá năng lực của nhân viên qua các kỳ thi theo năm, theo quý cũng là hình thức kích thích nhân viên học hỏi, sáng tạo và trau dồi kiến thức thường xuyên. Đây là hình thức hiệu quả để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh và nâng cao năng lực nhân viên.
Hầu hết các sản phẩm du lịch đều cần đầu tư ban đầu lớn và trải qua thời gian phải cải tạo và đầu tư thêm để phục vụ du khách tốt hơn. Cho nên, việc đưa ra tỷ lệ phù hợp cho việc cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất căn cứ vào doanh thu hàng năm là cần thiết đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Số lượng kinh phí có thể thay đổi qua các năm tuỳ thuộc vào chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ, đối với một khu du lịch, năm đầu tiên đi vào hoạt động có thể bỏ ra 50% doanh thu cho việc đầu tư thêm các loại hình vui chơi giải trí mới, 3 năm tiếp theo bỏ ra 30% doanh thu và đến năm thứ 10 thì chỉ bỏ ra 10% doanh thu để cải tạo và nâng cấp. Số tiền đầu tư cho việc cải tạo và nâng cấp được gắn chặt với chiến lược hoạt động của công ty.
Mỗi loại hình kinh doanh sản phẩm du lịch cũng có cần đầu tư khác nhau. Ví dụ các đơn vị kinh doanh khách sạn, nhà hàng thì cần đầu tư nhiều hơn vào cơ sở vật chất, còn các công ty lữ hành có thể ít hơn, và còn phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp.
Quan tâm đến lợi ích của khách hàng là chiến lược lâu dài, đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà cung cấp dịch vụ. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phải áp dụng hệ thống quản lý chất lượng với các công cụ để tự kiểm tra và chứng minh tính chuyên nghiệp của mình. Vì hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế thường khá phức tạp, tỉ mỉ và yêu cầu phải tuân theo nghiêm ngặt, cho nên tại Việt Nam, chỉ các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm du lịch như các khách sạn và các công ty lữ hành lớn mới áp dụng hệ thống này. Các đơn vị còn lại phần lớn đều không áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế.
Du lịch là một trong những ngành công nghiệp phát triển nhanh nhất thế giới và là nguồn thu ngoại tệ và góp phần quan trọng vào sự phát triển của nhiều quốc gia. Đó là một trong những hiện tượng kinh tế, xã hội đáng chú ý nhất. Chính vì vậy, việc phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách du lịch trong và ngoài nước là điều vô cùng quan trọng. Trên đây, Luận Văn 2S đã cùng bạn đọc tìm hiểu sản phẩm du lịch là gì cũng như các nội dung kiến thức xoay quanh khái niệm này. Chúng tôi hy vọng rằng bài viết đã giải quyết các câu hỏi mà bạn đang tìm kiếm. Đừng quên, liên hệ với dịch vụ viết luận văn du lịch thuê của chúng tôi khi bạn cần sự hỗ trợ nhé!
Hà Nội: Tòa nhà Detech Tower - Số 8 Tôn Thất Thuyết, Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Đà Nẵng: Toà nhà Thành Lợi 2 - Số 3 Lê Đình Lý, Thạc Gián, Thanh Khê, Đà Nẵng.
Hồ Chí Minh: Tòa nhà Hải Hà - 217 Đường Nguyễn Văn Thủ, Đa Kao, Quận 1, Hồ Chí Minh.
Cần Thơ: Ba Tháng Hai, Xuân Khánh, Ninh Kiều, Cần Thơ.
Hotline: 0976 632 554
Email: 2sluanvan@gmail.com